Trên thế giới cây sa kê (Artocarpus altilis) có mặt ở khắp nơi, cây sa kê thuộc dạng thân gỗ to có chiều cao 10 -12m, có khoảng 50 loài mọc tại những vùng có khí hậu nhiệt đới và ẩm ướt trên Đông Nam Á và trên những hòn đảo Thái Bình Dương (Ragone et al., 20018). Ở nước ta, cây sa kê trồng từ Đà Nẵng trở vào Nam (Huong et al., 2012). Lá sa kê thường được ứng dụng trong y học dân gian để điều trị các bệnh liên quan đến rối loạn nhịp tim gây làm tăng huyết áp, cholesterol cao, vàng da, các vấn đề về tiết niệu và tiểu đường (Lans et al., 2006; Siddesha et al., 2011).
Trà túi lọc từ lá sa kê đem lại sự tiện dụng, giá trị dinh dưỡng, giải khát và những mục đích thiết thực cho người tiêu dùng. Lá sa kê rụng, không bị sâu, úng được rửa sạch, sấy khô đến độ ẩm dưới 7%, sau đó được thực hiện các khảo sát về nhiệt độ sao rang (60℃, 70℃, 80℃, 90℃), tỉ lệ bột lá sa kê/nước pha trà (1:40 g/mL, 1:45 g/mL, 1:50 g/mL, 1:55 g/mL), nhiệt độ nước pha trà (85℃, 90℃, 95℃, 100℃), thời gian pha trà (3 phút, 5 phút, 7 phút, 9 phút) đến hàm lượng polyphenol và hoạt tính kháng oxy hóa của lá sa kê. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiệt độ sao rang lá sa kê 80℃, tỉ lệ bột lá sa kê/nước pha trà 1:45 (g/mL) và nhiệt độ nước pha trà 95℃, thời gian pha trà 7 phút thì nước trà có hàm lượng polyphenol (3,914±0,014) mg GAE/g ck và hoạt tính kháng oxy hóa DPPH (30,141±0,064)% cao nhất.
Ảnh hường của thời gian trích ly đến hàm lượng polyphenol và khả năng chống oxy hóa của nước trà từ lá sa kê
Tác giả: Trần Thị Trang, Nguyễn Hồng Khôi Nguyên